Giai
đoạn 1994 – 2004,
ngay từ thời kỳ đầu mới thành lập, Trung tâm đã thực hiện tuyển chọn các giống
cây trồng, vật nuôi có ưu thế lai tốt, năng suất cao, hướng dẫn thay đổi tập
quán sản xuất để thực hiện mục tiêu ổn định nhu cầu về lương thực, thực phẩm
cho nhân dân trong tỉnh.
Nổi bật nhất trong giai đoạn này, Nam Định
là tỉnh đầu tiên trong cả nước ứng dụng sản xuất thành công hạt giống lúa lai
F1; áp dụng vào sản xuất đại trà các giống lúa lai, các giống lúa thuần nhập nội
từ Trung Quốc có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, thích ứng rộng. Đồng
thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh mới, đặc biệt chuyển phương thức
mạ dược sang mạ nền là chủ yếu đã làm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất.
Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, trà lúa Xuân muộn tăng lên 99% vào năm 2000 trong khi
đó trước năm 1993 chỉ là 10-15%. Vì vậy năng suất lúa đã tăng gấp 2 lần so với
năm 1993 đạt 70 tạ/ha, và bước đầu đã tăng thêm vụ Đông trên chân 2 lúa với các
loại cây trồng như: Bí xanh, Khoai tây, Đậu tương, các giống ngô lai....
Hoạt động khuyến nông đã tập trung chuyển
giao các tiến bộ về giống, thức ăn chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, chuyển dần
từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại hàng hóa. Việc chuyển giao thành
công các giống gà màu nhập ngoại, giống ngan Pháp, lợn ngoại, bò Laisind, … có
năng suất chất lượng cao phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, đã làm đa dạng sản
phẩm cho ngành chăn nuôi của tỉnh, góp phần xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giầu
từ chăn nuôi và mở ra hướng phát triển mới cho ngành chăn nuôi của tỉnh.
Giai
đoạn 2004 – 2014,
hoạt động Khuyến nông Nam Định tập trung vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu sản xuất
để nâng cao giá trị trên mỗi đơn vị diện tích đất sử dụng, thông qua việc đẩy mạnh
chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, thay đổi mùa vụ kết hợp với ứng dụng kỹ
thuật thâm canh tiến bộ. Những cánh đồng cho thu nhập 50 triệu đồng/ha đã xuất
hiện ở giai đoạn này.
Các mô hình máy làm đất đa năng, mô hình
máy gặt đập liên hợp, đã được ứng dụng triển khai trong sản xuất, góp phần làm
tăng năng suất và chất lượng làm đất, giảm tổn thất sau thu hoạch lúa.
Giai
đoạn 2014 đến nay,
các chương trình khuyến nông được triển khai theo định hướng Đề án “Tái cơ cấu
ngành Nông nghiệp Nam Định theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững”.
Trong lĩnh vực trồng trọt, đây là giai đoạn
Nam Định đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất, nhất là các khâu trong sản xuất
lúa, từ làm đất, gieo cấy, thu hoạch, đến bảo quản, chế biến. Đến nay, tỉnh đã
chuyển trọng tâm sản xuất từ số lượng sang chất lượng, tỷ lệ lúa chất lượng cao
đạt trên 72%; hiệu quả sản xuất lúa tăng 7 - 10%; sản lượng lương thực có hạt
bình quân đạt trên 900.000 tấn/năm.
Sản xuất rau màu được triển khai theo hướng
sản xuất hàng hóa gắn với truy xuất nguồn gốc, quản lý chất lượng theo chuỗi
giá trị. Nhiều mô hình rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, rau sạch ứng dụng
công nghệ của Nhật Bản được đưa vào sản xuất và được nhân rộng trên địa bàn tỉnh
và đang mở rộng ra sản xuất đại trà giúp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm;
tăng hiệu quả kinh tế; tăng lợi nhuận từ 2-4 lần so trồng lúa.
Trong chăn nuôi, các địa phương áp dụng
các mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật theo hướng VietGAHP, mô hình an toàn
sinh học, mô hình liên kết theo hướng sản xuất hàng hoá tại các trang trại, gia
trại. Xóa bỏ dần các điểm chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ, chuyển sang chăn nuôi
tập trung quy mô lớn; việc xử lý chất thải trong chăn nuôi được chú trọng khi
các mô hình công nghệ sử dụng đệm lót sinh học, phun men vi sinh, công nghệ
Biogas được áp dụng rộng rãi, đã góp phần hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường,
tiết kiệm chi phí, tận dụng được nguồn nhiệt năng trong sản xuất, sinh hoạt của
các hộ chăn nuôi.
Trên lĩnh vực thủy sản, đây là giai đoạn
Nam Định đẩy mạnh các đối tượng con nuôi trong môi trường biển, chú trọng phát
triển các đối tượng có giá trị kinh tế cao có khả năng xuất khẩu nhằm tăng sản
lượng hàng hoá thuỷ sản. Hệ thống khuyến nông tập trung xây dựng các mô hình
nuôi trồng thủy sản mặn lợ như: Mô hình nuôi cá Song, nuôi tôm thẻ chân trắng,
nuôi sò huyết, nuôi cá Bống bớp. Các mô hình này được áp dụng các công nghệ
nuôi sạch, sử dụng hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp, sử dụng các chế phẩm vi
sinh. Kết quả các mô hình đều cho hiệu quả kinh tế cao từ 200-300 triệu đồng/ha
trở lên. Một số mô hình đạt trên 500 triệu đồng/ha, như mô hình nuôi tôm thẻ
chân trắng, mô hình nuôi cá bống bớp. Ngoài ra hệ thống khuyến nông cũng xây dựng
các mô hình với đối tượng nước ngọt phục vụ tiêu dùng nội địa như: chạch đồng,
cá lăng, cá chép, cá trắm đen, cá chuối, cá diêu hồng... Các mô hình này đều
thành công và cho hiệu quả kinh tế cao từ 150-350 triệu đồng/ha.
Hoạt động khuyến nông trong công tác chỉ đạo
sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, góp phần bảo vệ sản xuất, phòng chống
thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi. Với gần 400 khuyến nông viên luôn
bám sát cơ sở, hoạt động tại tất cả các xã, thị trấn, tích cực tham mưu cho các
địa phương trong công tác chỉ đạo sản xuất, như: lịch thời vụ, dự tính, dự báo
sâu bệnh, dịch hại, xây dựng mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tư vấn cho các
HTX, chủ trang trại, gia trại, bà con nông dân trong xây dựng phương án sản xuất.
Viết các tin bài tuyên truyền trên các hệ thống thông tin tại địa phương, tham
gia ban chỉ đạo nông nghiệp các xã, thị trấn; thăm đồng và trực tiếp hướng dẫn
kỹ thuật; tham gia phòng chống, ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh, như: phòng trừ
rầy lưng trắng, phòng chống virut lây bệnh lùn sọc đen trên lúa; tiêu hủy gia
súc, gia cầm như: dịch tả lợn Châu phi, dịch cúm A H5N1. Khuyến nông luôn đồng
hành mọi lúc, mọi nơi, ở đâu có nông dân, ở đó có khuyến nông.
Việc xây dựng và nhân rộng các mô hình
khuyến nông có ý nghĩa quan trọng, nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở nông
thôn. Những năm qua, nhiều mô hình khuyến nông đã mang lại giá trị kinh tế cao,
cải thiện đời sống người dân, góp phần tích cực xây dựng nông thôn mới ở các địa
phương. Trong chặng đường 30 năm hoạt động, Khuyến nông Nam Định đã triển khai
được khoảng hơn 9.000 mô hình khuyến nông; trong đó, có hơn 300 mô hình, dự án,
chương trình khuyến nông có đầu tư của Trung ương và của tỉnh.
Những năm qua, nhiều mô hình khuyến nông đã mang lại giá trị
kinh tế cao, cải thiện đời sống
người dân, góp phần tích cực xây dựng nông thôn mới ở các địa phương
Các mô hình khuyến nông tập trung vào nhóm
đối tượng là cây lương thực và rau, hoa, cây ăn quả; chăn nuôi an toàn sinh học;
thực hiện chuyển giao công nghệ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhằm tạo ra vùng
sản xuất hàng hóa tập trung, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, phù hợp với tiềm
năng, lợi thế, tập quán sản xuất của nông dân ở từng địa phương. Ngành Nông
nghiệp hỗ trợ các địa phương đưa cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất, sơ chế và bảo
quản sau thu hoạch; tạo sự liên kết trong sản xuất giữa các hộ nông dân, giữa
các khâu sản xuất dịch vụ để các mô hình phát huy hiệu quả…
Từ kết quả thực hiện các mô hình, dự án
khuyến nông đã tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận kiến thức cơ bản trong chăn
nuôi, trồng trọt, thủy sản thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
hình thành những trang trại, gia trại sản xuất hiệu quả, góp phần quan trọng thực
hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Công tác thông tin, tuyên truyền trong thời
gian qua đã truyền tải một lượng thông tin đáng kể với nhiều hình thức như: tờ
rơi, áp phích, bản tin, chuyên mục truyền hình, trang Web khuyến nông. Thông
qua các kênh thông tin, tuyên truyền đã góp phần cung cấp nhanh thông tin, nhiều
địa chỉ tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả.
Trong công tác đào tạo, tập huấn: Hiện nay,
các nhóm nòng cốt khuyến nông cấp tỉnh, huyện đã có năng lực để tập huấn và áp
dụng các nội dung đã học vào thực tiễn công tác. Phương pháp tập huấn lấy người
học làm trung tâm, phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân, phương
pháp tập huấn tại hiện trường, giám sát, đánh giá công tác khuyến nông,
makettinh và thị trường nông nghiệp; kỹ năng viết tin và báo cáo; phương pháp tổ
chức hoạt động khuyến nông tại cơ sở. Lực lượng khuyến nông tỉnh, huyện, khuyến
nông viên qua đào tạo đã góp phần rất lớn trong nâng cao hiệu quả hoạt động
khuyến nông.
Trong 30 năm qua, hệ thống khuyến nông Nam
Định đã góp phần cùng toàn ngành nông nghiệp đạt được một số kết quả nổi bật
đáng ghi nhận. Thông qua hoạt động khuyến nông đã chuyển giao ứng dụng rộng rãi
nhiều mô hình về sản xuất lúa; nhân rộng các mô hình cơ giới hóa trong sản xuất;
nhiều mô hình cây trồng, vật nuôi áp dụng kỹ thuật mới đã được đưa vào thử nghiệm
đầu tiên trên địa bàn tỉnh được người dân đánh giá cao.
Đóng góp tích cực cho sự phát triển của
ngành nông nghiệp Nam Định. Đến nay, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng
bình quân 3,0%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt 3,6%/năm; giá
trị gia tăng hàng năm của các mặt hàng nông sản chủ lực đạt từ 10 - 15%. Dân số
nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt trên 99,9%. Toàn tỉnh có trên 85%
HTX hoạt động có hiệu quả theo luật HTX. Trong xây dựng NTM, Nam Định là 1
trong 2 tỉnh đầu tiên của cả nước về đích NTM, sớm hơn 1,5 năm so với Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra; toàn tỉnh hiện có 92,6% số xã, thị trấn đạt chuẩn
NTM nâng cao; có 330 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên.
30 năm xây dựng và phát triển, được sự
quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của Bộ NN và PTNT, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Tỉnh
ủy, HĐDN, UBND, đặc biệt sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của Sở NN và PTNT, Trung
tâm Khuyến nông Nam Định đã vượt lên mọi hoàn cảnh khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm
vụ chuyên môn được giao, góp phần thúc đẩy nông nghiệp, nông dân, nông thôn
ngày một phát triển vững mạnh. 30 năm qua, hệ thống Khuyến nông cùng toàn ngành
nông nghiệp đã tập trung chỉ đạo, triển khai toàn diện và có hiệu quả các hoạt
động của công tác khuyến nông. Những mục tiêu từ ngày đầu thành lập vẫn luôn là
kim chỉ nam cho chặng đường phát triển của hệ thống khuyến nông. Tập thể cán bộ
viên chức, người lao động Trung tâm Khuyến nông Nam Định luôn đoàn kết, thống
nhất, phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo vượt khó vươn lên. Công tác thi đua
khen thưởng, xây dựng điển hình tiên tiến, chăm lo đời sống được chú trọng triển
khai để người lao động yên tâm làm việc. Với những thành tích đạt được, Khuyến
nông Nam Định vinh dự được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý của Nhà nước,
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh: Huân chương lao động hạng 3, Cờ
thi đua, Bằng khen của Thủ tướng chính phủ, của UBND tỉnh, …
Những cống hiến đóng góp của đội ngũ những
người làm khuyến nông qua các thế hệ được nông dân, doanh nghiệp, HTX đánh giá
ghi nhận, với những đón nhận và những tình cảm tốt đẹp qua những mùa vụ bội
thu, những mô hình hiệu quả, những thay đổi về tư duy, thói quen tập quán mới
và sự tin tưởng, đồng hành cùng nhau.
Hội nghị tổng kết
30 năm hoạt động khuyến nông Nam Định
Trước bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương
mại tự do với các nước trên thế giới. Ngành nông nghiệp cả nước nói chung và tỉnh
Nam Định nói riêng đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ cùng với những khó
khăn, thách thức đan xen. Việc đổi mới, phát huy hơn nữa vai trò của công tác
khuyến nông là yêu cầu tất yếu được đặt ra.
30 năm, hệ thống Khuyến nông Nam Định đã
trải qua nhiều giai đoạn phát triển, gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Ở mỗi giai đoạn phát triển ở khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn
đều in đậm dấu ấn của những người làm công tác khuyến nông. Âm thầm đồng hành,
sát cánh cùng nông dân, làm việc với tinh thần, trách nhiệm cao nhất bằng đam
mê và lòng yêu nghề; bằng niềm trăn trở, làm điểm tựa cho khu vực nông nghiệp
phát triển. Với sự nỗ lực không ngừng, sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính
quyền; phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, Khuyến nông Nam Định hứa hẹn sẽ tiếp
tục xứng đáng là lá cờ đầu trong công tác khuyến nông – nơi chuyển giao tiến bộ
KHKT trong nông nghiệp, là nhịp cầu kết nối giữa nông dân với chính quyền; đưa
khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển theo đúng định hướng, đáp ứng
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Xác định rõ vai trò, nhiệm vụ trong giai đoạn
mới là phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và xây dựng NTM là yêu cầu cấp
thiết trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước và của tỉnh nhằm tạo ra sự cân bằng
với thiên nhiên, cho phép người dân tận hưởng chất lượng cuộc sống ngày càng
cao. Đây là cơ sở cho việc phát triển nông thôn trở thành vùng quê đáng sống; gắn
kết, kết nối giữa đô thị và nông thôn gần nhau hơn./.
TRUNG
TÂM KHUYẾN NÔNG NAM ĐỊNH